Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
Số 32 (2014) Trang: 69-75
Tải về

Thông tin chung:

Ngày nhận: 18/11/2013

Ngày chấp nhận: 30/06/2014

 

Title:

Comparison of Tra fish production process at seafood processing factories: microbial quality of total aerobic counts

Từ khóa:

Cá tra, Pangasius hypophthalmus, chế biến, vi sinh vật, an toàn thực phẩm

Keywords:

Tra fish, Pangasius hypophthalmus, processing, microbiology, food safety

ABSTRACT

Vietnamese Tra fish (Pangasius hypophthalmus), as a ?white flesh fish? on the western market, has become an economical valuable freshwater fishery product in recent years. The availability of data in microbiological quality of Tra fish product is, however, limited. Therefore, the microbiological evolution of Tra fish processed at large and small scale factories was evaluated. The total aerobic bacteria counts on fish, hands and food contact surfaces of small scale factory were revealed to be significantly higher than that of large scale factory (p < 0.05). Particularly, the total microbiological counts on the frozen fillets from the large and small scale plants were 2.9 ± 0.4 log CFU/g and 5.3 ± 0.4 log CFU/g, respectively. Some preventive measures should be improved to avoid a potential food safety problem at the small scale plant sampled.

TóM TắT

Cá tra (Pangasius hypophthalmus), được xem là loại cá thịt trắng ở thị trường phương Tây. Sản phẩm cá tra cũng đã trở thành một sản phẩm thủy sản cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao trong những năm gần đây. Tuy nhiên, các thông tin khoa học về chất lượng vi sinh vật của sản phẩm này thì rất hạn chế. Do đó, sự biến đổi chất lượng vi sinh vật trong quá trình chế biến cá tra tại hai nhà máy có qui mô lớn và nhỏ được khảo sát. Mật số vi sinh vật tổng số trên cá, tay và bề mặt tiếp xúc trên dây chuyền chế biến tại nhà máy có qui mô nhỏ thì cao hơn và khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) so với qui mô lớn. Đối với thành phẩm cá tra lạnh đông, mật số vi sinh vật tổng số tương ứng là 2,9 ± 0,4 log CFU/g (qui mô lớn) và 5,3 ± 0,4 log CFU/g (qui mô nhỏ). Vì vậy, trong phạm vi của nghiên cứu này, nhà máy sản xuất cá tra có qui mô nhỏ nên cải thiện các biện pháp phòng ngừa để tránh khả năng mất an toàn thực phẩm.

Các bài báo khác
Vol. 54, No. 8 (2018) Trang: 124-130
Tải về
Tập 54, Số CĐ Nông nghiệp (2018) Trang: 211-218
Tải về
Số 19b (2011) Trang: 62-69
Tải về
Số 15a (2010) Trang: 83-91
Tải về
Số Nông nghiệp 2016 (2016) Trang: 98-104
Tải về
Số chuyên đề (2020) Trang: 31-37
Tạp chí: Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp VN
19 (2020) Trang: 64-72
Tạp chí: The Journal of Agriculture and Development (Nong Lam University – Ho Chi Minh city)
17 (2019) Trang: 126-132
Tạp chí: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Volume 74 Number 3 (2019) Trang: 49-58
Tạp chí: Vietnam Journal of Science and Technology
(2015) Trang: 45-45
Tạp chí: Food Technology: “Towards a more efficient use of natural resources”
1 (2013) Trang: 319
Tạp chí: FOOD SAFETY & FOOD QUALITY IN SOUTHEAST ASIA CHALLENGES FOR THE NEXT DECADE
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...