A pilot-scale trial on alternative culture of mud skipper in the shrimp ponds was conducted with 3 stocking densities including 40, 70 and 120 fish/m² in Bac Lieu province. Fish were fed commercial pellet (30-40% crude protein). After 4 months of culture, mean individual weight and survival of fish were in the ranges of 16.8-22.5 g/fish and 16.4-22.9%, respectively. Average fish yield increased with increasing stocking density ranging from 1963 to 3335 kg/ha, in which fish yield in the treatment of 40 fish/m² was significantly lower than that in two other densities (p<0.05). However, both densities of 40 and 70/m² obtained the similar profitability values (VND 22.7 and 25.9 mil./ha) and benefit cost ratio were 0.25 and 0.19, respectively, and significant difference were not detected in this parameter (p>0,05). Particularly, in the treatment of 120 fish/m² had smaller fish size and lower selling price, which in turn results in gross returns that are smaller than the total costs. Hence, this causes a negative net return (loss of VND 34,5 mil./ha). On the basis of fish weight and profit values in this study, it was concluded that the rotational cultivation of mud skipper in shrimp ponds at densities between 40 and 70 fish/m² which could be considered an optimum on the yield and economic efficiency, especially low investment and less risky.
Tittle: Effect of density on yield and economic efficiency of alternative shrimp- mud skipper, PseudapocrypteslanceolatusBloch, 1801 culture systems
TóM TắT
Thực nghiệm nuôi luân canh cá kèo trong ao tôm sú ở tỉnh Bạc Liêu, với 3 nghiệm thức có mật độ khác nhau: 40, 70 và 120 con/m². Cá được cho ăn thức ăn công nghiệp(30-40% đạm). Sau 4 tháng nuôi, trọng lượng và tỉ lệ sống trung bình của cá dao động 16,8-22,5 g/con và 16,4-22,9%, theo thứ tự. Năng suất cá trung bình tăng theo sự tăng mật độ, dao động từ 1963 đến 3335 kg/ha, trong đó năng suất ở nghiệm thức 40 con/m² thấp hơn có ý nghĩa so với hai mật độ còn lại (p<0,05). Tuy nhiên, cả hai mật độ 40 và 70 con/m² thu được lợi nhuận tương đương nhau (22,7 và 25,9 triệu đồng/ha) và tỉ suất lợi nhuận tương ứng là 0,25 và 0,19; không có sự khác biệt thống kê về chỉ tiêu này (p>0,05). Riêng ở nghiệm thức 120 con/m² có trọng lượng cá nhỏ hơn giá bán thấp hơn dẫn đến tổng thu nhỏ hơn tổng chi. Vì thế, điều này dẫn đến bị lỗ vốn 34,5 triệu đồng/ha. Dựa vào chỉ tiêu về trọng lượng và lợi nhuận trong nghiên cứu này, có thể kết luận rằng nuôi luân canh cá kèo trong ao tôm sú với mật độ từ 40-70 con/m² có thể được xem là tối ưu về năng suất và hiệu quả kinh tế, đặc biệt là vốn đầu thấp và ít rủi ro.
Tù khóa: Mật độ nuôi, cá kèo, năng suất, hiệu quả kinh tế
Anh, N.T.N., Nhi, N.T., and Hoa, N.V., 2015. Effect of different drying methods on total lipid and fatty acid profiles of dried Artemia franciscana biomass. Can Tho University Journal of Science. 1: 1-9.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Quảng Thị Mỹ Duyên, Nguyễn Văn Hòa, 2014. KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ KỸ THUẬT VÀ HIỆU QUẢ TÀI CHÁNH MÔ HÌNH NUÔI ARTEMIA Ở TỈNH SÓC TRĂNG VÀ BẠC LIÊU. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 32: 100-112
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Nguyễn Bé Mi, Đoàn Hồng Vân, Nguyễn Anh Thư, 2015. Thử nghiệm trồng rong nho (Caulerpa lentillifera) trong bể với các dạng rong giống và nền đáy khác nhau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 41: 101-110
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thiện Toàn, Trần Ngọc Hải, 2014. KHẢ NĂNG SỬ DỤNG RONG BÚN (ENTEROMORPHA SP.) VÀ RONG MỀN (CLADOPHORACEAE) KHÔ LÀM THỨC ĂN CHO CÁ TAI TƯỢNG (OSPHRONEMUS GORAMY). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 35: 104-110
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Vinh, Lam Mỹ Lan và Trần Ngọc Hải, 2019. Ảnh hưởng của các mức cho ăn khác nhau lên chất lượng nước, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm sú (Penaeus monodon) nuôi kết hợp với rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 55(3B): 111-122.
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Dương Thị Thanh Mai và Trần Ngọc Hải, 2017. Thử nghiệm nuôi trồng rong nho (Caulerpa lentillifera J. Agardh, 1837) trong bể với các mật độ và phương thức nuôi trồng khác nhau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 52b: 113-121.
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thị Thúy An, Phạm Thị Tuyết Ngân và Trần Ngọc Hải, 2017. Nghiên cứu sử dụng rong xanh (Cladophora sp.) làm nguồn thức ăn cho cá rô phi (Oreochromis niloticus). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 50b: 119-126.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Lý Văn Khánh, Trần Thị Thanh Hiền, 2014. Sử DụNG RONG BúN (ENTEROMORPHA SP.) LàM THứC ĂN CHO Cá NÂU (SCATOPHAGUS ARGUS) NUÔI TRONG AO ĐấT. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 33: 122-130
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Đinh Thị Kim Nhung, Trần Ngọc Hải, 2014. THAY THẾ PROTEIN ĐẬU NÀNH BẰNG PROTEIN RONG BÚN (ENTEROMORPHA SP.) VÀ RONG MỀN (CHLADOPHORACEAE) TRONG THỨC ĂN CHO TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (LITOPENAEUS VANNAMEI) GIỐNG. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Chuyên Đề Thủy Sản: 158-165
Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2011. SỬ DỤNG SINH KHỐI ARTEMIA LÀM THỨC ĂN TRONG ƯƠNG NUÔI CÁC LOÀI THỦY SẢN NƯỚC LỢ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 19b: 168-178
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Hứa Thái Nhân, 2010. NGHIÊN CỨU NUÔI THÂM CANH CÁ KÈO ?PSEUDAPOCRYPTES LANCEOLATUS BLOCH, 1801) TRONG BỂ VỚI CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 13: 189-198
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Huỳnh Lý Hương và Trần Ngọc Hải, 2018. Khảo sát thành phần loài rong xanh họ Cladophoraceae trong các thủy vực nước lợ tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 54(Số chuyên đề: Thủy sản)(2): 26-35.
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Vinh, Đặng Trung Đoàn, Trần Ngọc Hải và Lam Mỹ Lan, 2020. So sánh nuôi đơn và nuôi kết hợp tôm sú (Penaeus monodon) - rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata) trong đăng lưới với các mật độ khác nhau ở điều kiện không cho ăn. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 56(Số chuyên đề: Thủy sản)(2): 48-58.
Anh, N.T.N. and Hai, T.N., 2018. Effects of partial replacement of fishmeal protein by protein extracted from green seaweed (Cladophoraceae) in mudskipper (Pseudapocryptes elongatus) diets. Can Tho University Journal of Science. 54(5): 65-71.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Mai Thị Bảo Trâm, Nguyễn Văn Bình, 2016. Khả năng sử dụng cám gạo làm thức ăn cho hải sâm cát (Holothuria scabra) giống. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 42: 85-92
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Đinh Thanh Hồng và Trần Ngọc Hải, 2017. Khảo sát sinh lượng và tác động của rong xanh (Cladophoraceae) trong đầm nuôi tôm quảng canh cải tiến ở tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 51b: 95-105.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Đinh Thị Kim Nhung, Trần Ngọc Hải, 2014. Hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong nuôi kết hợp với rong bún (Enteromorpha sp.) và rong mền (Cladophoraceae). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 31: 98-105
Tạp chí: International Forum on Green Technology and Management 2014: ENVIRONMENTAL PROTECTION TOWARD SUSTAINABLE DEVELOPMENT September 26, 2014, Can Tho University
Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Lầu 4, Nhà Điều Hành, Khu II, đường 3/2, P. Xuân Khánh, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Điện thoại: (0292) 3 872 157; Email: tapchidhct@ctu.edu.vn
Chương trình chạy tốt nhất trên trình duyệt IE 9+ & FF 16+, độ phân giải màn hình 1024x768 trở lên