Study on cultivation of sea grape (Caulerpa lentillifera) in tank with different forms of seed stock and substrates consisted of two experiments. Experiment 1, two types of seed stock consisting of the intact thallus (erected fronds and horizontal stolon) and the horizontal stolon (thallus was cut all erected fronds) was cultivated in the 70 L plastic rectangular tank with sandy bottom. Each treatment had 3 replicates. Water from the tiger shrimp larval tanks (salinity of 30 ppt) was used as nutrient source for sea grape. After 2 weeks of cultivation, the horizontal stolon had significantly higher (p<0.05) growth rate compared to the intact thallus. Experiment 2, sea grape was cultivated with five different bottom substrates namely no substrate, muddy, sandy, sandy-mud and muddy-sand substrate in the rectangular plastic tanks 250 L at salinity of 30 ppt. The best type of seed stock (horizontal stolon) in experiment 1 was utilized and fishmeal was applied everyday as organic fertilizer at concentration of 10 ppm and lasted for 36 days. Results showed that the growth rate of sea grape in the no substrate and sandy substrate (3.14 %/day and 3.12 %/day) were significantly higher than other treatments (p<0.05) while the poorest growth was found in the muddy substrate (2.51 %/day). Moreover, the sandy substrate gave higher proportion of edible frond/thallus and percentage of frond length attained the commercial size (≥5 cm), thallus with frond having brighter green in color and denser ramuli compared with other substrates. Therefore, the sandy substrate could be considered as suitable condition for cultivating sea grape (C. lentillifera) in tank to obtain good quality of commercial sea grape.
TÓM TẮT
Thử nghiệm trồng rong nho (Caulerpa lentillifera) trong bể với các dạng rong giống và nền đáy khác nhau được thực hiện gồm 2 thí nghiệm. Thí nghiệm 1, hai dạng rong giống gồm rong nguyên tản (thân đứng (phần chùm nho) và thân bò) và tản rong được cắt bỏ phần thân đứng (phần chùm nho) được bố trí trong cùng bể nhựa hình chữ nhật 70 L với nền đáy cát. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Nước thải từ bể ương ấu trùng tôm sú (độ mặn 30 ppt) được sử dụng làm nguồn dinh dưỡng cho rong nho. Sau 2 tuần nuôi trồng, giống rong nho được cắt bỏ phần thân đứng có tốc độ tăng trưởng cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với giống rong nguyên tản. Thí nghiệm 2, rong nho được nuôi trồng với năm loại nền đáy khác nhau gồm không nền đáy, nền đáy bùn, đáy cát, cát-bùn và bùn-cát trong bể nhựa hình chữ nhật 250 L, độ mặn 30 ppt. Loại rong giống tốt (thân bò) ở thí nghiệm 1 được sử dụng và bột cá được bón mỗi ngày như nguồn phân hữu cơ với mức 10 ppm trong thời gian 36 ngày. Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng của rong nho trồng trong bể không nền đáy và đáy cát (3,14 %/ngày và 3,12 %/ngày) cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại và thấp nhất là ở nền đáy bùn (2,51 %/ngày). Thêm vào đó, nghiệm thức đáy cát có tỉ lệ khối lượng thân đứng trên toàn tản rong và tỉ lệ thân đứng của rong nho có chiều dài đạt kích cỡ thương phẩm (≥5 cm), và màu xanh tươi hơn cùng với các quả cầu phân bố đều và dày hơn so với các loại nền đáy khác. Do đó, nền đáy cát có thể được xem là thích hợp trồng rong nho trong bể để thu được chất lượng rong nho thương phẩm tốt hơn.
Anh, N.T.N., Nhi, N.T., and Hoa, N.V., 2015. Effect of different drying methods on total lipid and fatty acid profiles of dried Artemia franciscana biomass. Can Tho University Journal of Science. 1: 1-9.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Quảng Thị Mỹ Duyên, Nguyễn Văn Hòa, 2014. KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ KỸ THUẬT VÀ HIỆU QUẢ TÀI CHÁNH MÔ HÌNH NUÔI ARTEMIA Ở TỈNH SÓC TRĂNG VÀ BẠC LIÊU. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 32: 100-112
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thiện Toàn, Trần Ngọc Hải, 2014. KHẢ NĂNG SỬ DỤNG RONG BÚN (ENTEROMORPHA SP.) VÀ RONG MỀN (CLADOPHORACEAE) KHÔ LÀM THỨC ĂN CHO CÁ TAI TƯỢNG (OSPHRONEMUS GORAMY). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 35: 104-110
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Vinh, Lam Mỹ Lan và Trần Ngọc Hải, 2019. Ảnh hưởng của các mức cho ăn khác nhau lên chất lượng nước, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm sú (Penaeus monodon) nuôi kết hợp với rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 55(3B): 111-122.
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Dương Thị Thanh Mai và Trần Ngọc Hải, 2017. Thử nghiệm nuôi trồng rong nho (Caulerpa lentillifera J. Agardh, 1837) trong bể với các mật độ và phương thức nuôi trồng khác nhau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 52b: 113-121.
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thị Thúy An, Phạm Thị Tuyết Ngân và Trần Ngọc Hải, 2017. Nghiên cứu sử dụng rong xanh (Cladophora sp.) làm nguồn thức ăn cho cá rô phi (Oreochromis niloticus). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 50b: 119-126.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Lý Văn Khánh, Trần Thị Thanh Hiền, 2014. Sử DụNG RONG BúN (ENTEROMORPHA SP.) LàM THứC ĂN CHO Cá NÂU (SCATOPHAGUS ARGUS) NUÔI TRONG AO ĐấT. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 33: 122-130
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Đinh Thị Kim Nhung, Trần Ngọc Hải, 2014. THAY THẾ PROTEIN ĐẬU NÀNH BẰNG PROTEIN RONG BÚN (ENTEROMORPHA SP.) VÀ RONG MỀN (CHLADOPHORACEAE) TRONG THỨC ĂN CHO TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (LITOPENAEUS VANNAMEI) GIỐNG. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Chuyên Đề Thủy Sản: 158-165
Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2011. SỬ DỤNG SINH KHỐI ARTEMIA LÀM THỨC ĂN TRONG ƯƠNG NUÔI CÁC LOÀI THỦY SẢN NƯỚC LỢ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 19b: 168-178
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Hứa Thái Nhân, 2010. NGHIÊN CỨU NUÔI THÂM CANH CÁ KÈO ?PSEUDAPOCRYPTES LANCEOLATUS BLOCH, 1801) TRONG BỂ VỚI CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 13: 189-198
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Huỳnh Lý Hương và Trần Ngọc Hải, 2018. Khảo sát thành phần loài rong xanh họ Cladophoraceae trong các thủy vực nước lợ tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 54(Số chuyên đề: Thủy sản)(2): 26-35.
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Vinh, Đặng Trung Đoàn, Trần Ngọc Hải và Lam Mỹ Lan, 2020. So sánh nuôi đơn và nuôi kết hợp tôm sú (Penaeus monodon) - rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata) trong đăng lưới với các mật độ khác nhau ở điều kiện không cho ăn. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 56(Số chuyên đề: Thủy sản)(2): 48-58.
Anh, N.T.N. and Hai, T.N., 2018. Effects of partial replacement of fishmeal protein by protein extracted from green seaweed (Cladophoraceae) in mudskipper (Pseudapocryptes elongatus) diets. Can Tho University Journal of Science. 54(5): 65-71.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Lý Văn Khánh, Hứa Thái Nhân, 2010. ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA MÔ HÌNH NUÔI CÁ KÈO (PSEUDAPOCRYPTES LANCEOLATUS BLOCH, 1801) LUÂN CANH TRONG AO NUÔI TÔM SÚ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 14: 76-86
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Trần Ngọc Hải, Mai Thị Bảo Trâm, Nguyễn Văn Bình, 2016. Khả năng sử dụng cám gạo làm thức ăn cho hải sâm cát (Holothuria scabra) giống. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 42: 85-92
Trích dẫn: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Đinh Thanh Hồng và Trần Ngọc Hải, 2017. Khảo sát sinh lượng và tác động của rong xanh (Cladophoraceae) trong đầm nuôi tôm quảng canh cải tiến ở tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 51b: 95-105.
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Đinh Thị Kim Nhung, Trần Ngọc Hải, 2014. Hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong nuôi kết hợp với rong bún (Enteromorpha sp.) và rong mền (Cladophoraceae). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 31: 98-105
Tạp chí: International Forum on Green Technology and Management 2014: ENVIRONMENTAL PROTECTION TOWARD SUSTAINABLE DEVELOPMENT September 26, 2014, Can Tho University
Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Lầu 4, Nhà Điều Hành, Khu II, đường 3/2, P. Xuân Khánh, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Điện thoại: (0292) 3 872 157; Email: tapchidhct@ctu.edu.vn
Chương trình chạy tốt nhất trên trình duyệt IE 9+ & FF 16+, độ phân giải màn hình 1024x768 trở lên