Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
Tập 55, Số 4 (2019) Trang: 140-147
Tải về

Thông tin chung:

Ngày nhận bài: 07/03/2019

Ngày nhận bài sửa: 23/04/2019

Ngày duyệt đăng: 30/08/2019

 

Title:

Study on fish species composition and abundance in the lower areas of Bassac River

Từ khóa:

CPUE, sông Hậu, Thành phần loài, Vùng hạ lưu

Keywords:

Bassac river, CPUE, Fish Species Composition, Lower Mekong River

ABSTRACT

A study on fish species composition and abundance in the lower areas of Bassac River was conducted for 6 months, from March 2017 to August 2017. The fish samples were collected by using bottom trawl nets. The results showed that 84 species belonging to 36 families and 12 orders were identified. Perciformes is the most diverse order with 33 species accounting for 39%, followed by the Siluriformes with 14 species (17%) and Cypriniformes with 10 species (12%). Salinity has affects on the fish species composition. The results also indicated that catch per unit effort (CPUE) was relatively low and fluctuated through the sampling sites and times. CPUE increased from freshwater sites (1,075±750 g/ha) to estuarine sites (1,795±1,578 g/ha). CPUE was lowest in April with 684± 66 g/ha and highest in August with 2,535±2510 g/ha.

TÓM TẮT

Nghiên cứu thành phần loài và sản lượng cá vùng hạ lưu sông Hậu được thực hiện trong 6 tháng, từ tháng 3/2017 đến tháng 8/2017. Mẫu cá được thu trực tiếp bằng lưới kéo tầng đáy. Kết quả khảo sát cho thấy có 84 loài cá thuộc 36 họ và 12 bộ được xác định. Trong đó bộ cá vược (Perciformes) có số lượng loài đa dạng nhất với 33 loài chiếm 39%, kế đến là bộ cá da trơn (Siluriformes) với 14 loài chiếm 17% và bộ cá chép (Cypriniformes) với 10 loài chiếm 12%. Độ mặn có ảnh hưởng đến sự xuất hiện thành phần loài cá. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sản lượng trên một đơn vị khai thác (CPUE) tương đối thấp và có sự biến động qua các điểm thu mẫu cũng như giữa các tháng trong năm. CPUE có xu hướng tăng dần từ vùng ngọt (1.075±750 g/ha) đến vùng cửa sông (1.795±1.578 g/ha). CPUE thấp nhất vào Tháng 4 với 684±366 g/ha và cao nhất vào Tháng 8 với 2.535±2.510 g/ha.

Trích dẫn: Trần Đắc Định và Hồng Thị Hải Yến, 2019. Nghiên cứu biến động thành phần loài và sản lượng cá vùng hạ lưu sông Hậu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 55(4B): 140-147.

Các bài báo khác
Tập 56, Số CĐ Thủy sản (2020) Trang: 124-129
Tải về
Số 18a (2011) Trang: 56-64
Tải về
Trương Quốc Phú (2022) Trang: 254-284
Tạp chí: Môi trường và nguồn lợi thủy sinh vật ở Đồng bằng sông Cửu Long
6 (2020) Trang: 137-142
Tạp chí: Tạp chí Khoa học công nghệ nông nghiệp Viêt Nam
Le Viet Phu, Nguyen van Giap, Le thi Quynh Tram, Chu thai Hoanh and Malcolm McPherson (2019) Trang: 227-240
Tạp chí: Resource Governance, Agriculture and Sustainable Livelihoods in the Lower Mekong Basin
1 (2012) Trang: 26th 15:50-16:25
Tạp chí: International Workshop on Freshwater Biodiversity Coversation in Asia
1 (2013) Trang: 1
Tạp chí: Hội nghị Khoa học công nghệ sinh học Toàn quốc 2013-NXB Khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ
1 (2013) Trang: 1
Tạp chí: Fishes of the Mekong Delta, Viet Nam
1 (2012) Trang: 1
Tạp chí: Freshwater Biodiversity Conservation in Asia
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...