Study on migration of the goby (Pseudapocryptes elongatus) was carried out in the coastal area of Bac Lieu province from January to December, 2009. A number of the migrated fish was determined by using the data of catch (in number) and effort (in hour) of bag net fishery by catch per unit effort, CPUE (number of migrated fish/bag net/hour). Results indicated that the goby abundantly follows the tidal currents for migration to sea in January and February meanwhile it was rarely during October to December. The goby migrated to sea two times per month during the full moon (15th day of lunar calendar) and new moon (30th day of lunar calendar) period, in which they mainly migrated during the new moon period. The results also indicated that the goby started to migrate at the size of 116.1 mm in standard length (SL) and the most migrated size was 147.8 mm (SL). Almost of the migrated goby was examined as unmatured fish. Results also indicated that the water temperature in the research area fluctuated with narrow range; however, the results showed that CPUE in the period of high water temperature was lower than that of the lower temperature. The results also indicated that the goby migrated abundantly when the salinity, current velocity and tidal range were higher.
Keywords: Goby, Pseudapocryptes elongatus, Seasonal migration, and Migration size
Title: Migration of the goby (Pseudapocryptes elongatus) distributed in coastal areas of the Mekong Delta
TóM TắT
Nghiên cứu tập tính di cư của cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) được tiến hành ở vùng ven biển thuộc tỉnh Bạc Liêu trong thời gian một năm tròn, từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2009. Số lượng di cư của cá kèo được xác định dựa vào sản lượng (số cá thể) và thời gian khai thác (giờ) của nghề lưới đáy, thông qua sản lượng trên một đơn vị khai thác, CPUE (số cá thể/miệng lưới đáy/giờ). Kết quả cho thấy cá kèo theo thủy triều di cư ra biển nhiều nhất vào tháng giêng và tháng hai; ngược lại, vào các từ tháng 10 đến tháng 12 có số lượng di cư ít nhất. Cá kèo di cư ra biển mỗi tháng 2 lần tương ứng với 2 thời kỳ triều lên trong tháng là con nước rằm (15 âl) và con nước rong (30 âl), trong đó cá di cư với số lượng lớn và thường xuyên hơn trong thời kỳ con nước rong (30 âl). Về kích cở, chúng bắt đầu di cư ở chiều dài (SL) 116,1 mm và chúng di cư nhiều nhất khi đạt chiều dài SL=147,8 mm. Hầu hết cá di cư đều chưa đến giai đoạn thành thục sinh dục. Mặc dù nhiệt độ nước biến động không lớn giữa các tháng. Tuy nhiên, kết quả cho thấy cá di cư nhiều nhất hơn khi nhiệt độ thấp; ngược lại, cá di cư ít khi nhiệt độ cao hơn. Kết quả cũng cho thấy cá kèo di cư nhiều hơn vào thời điểm khi mà các yếu tố sinh thái như độ mặn, lưu tốc dòng chảy và biên độ thủy triều cao hơn.
Từ khóa: Cá Kèo, Pseudapocryptes elongatus, Mùa vụ di cư, Kích cỡ di cư
Trích dẫn: Trần Đắc Định, Nguyễn Thị Vàng và Đinh Minh Quang, 2020. Biến động quần thể cá lành canh vàng (Coilia rebentischii) ở sông Cửa Lớn, tỉnh Cà Mau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 56(Số chuyên đề: Thủy sản)(2): 124-129.
Trích dẫn: Trần Đắc Định và Hồng Thị Hải Yến, 2019. Nghiên cứu biến động thành phần loài và sản lượng cá vùng hạ lưu sông Hậu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 55(4B): 140-147.
Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Lầu 4, Nhà Điều Hành, Khu II, đường 3/2, P. Xuân Khánh, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Điện thoại: (0292) 3 872 157; Email: tapchidhct@ctu.edu.vn
Chương trình chạy tốt nhất trên trình duyệt IE 9+ & FF 16+, độ phân giải màn hình 1024x768 trở lên