Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
Tập 55, Số 4 (2019) Trang: 97-104
Tải về

Thông tin chung:

Ngày nhận bài: 18/12/2018

Ngày nhận bài sửa: 07/05/2019

Ngày duyệt đăng: 30/08/2019

 

Title:

Study on mudskipper (Pseudapocryptes elongatus) culture in tanks at different density in the biofloc systems

Từ khóa:

Biofloc, cá kèo, mật độ, nuôi bể,Pseudapocryptes elongatus

Keywords:

Biofloc, mudskipper, Pseudapocryptes elongatus, stocking density, tank culture

ABSTRACT

The study is aimed to optimize the stocking density for growth and survival rate of mudskipper (Pseudapocryptes elongatus) in biofloc systems. The experiment design was completely randomized with three replications of four stocking density including:  100, 200, 300 and 400 inds/m3. Fish were stocked in 0.5 m3 tanks containing 0.35 m3 of 15‰brackish water in biofloc system (C:N ratio =15:1). The body weight and length of initial fish was 2.07±0.04 gand 8.17±0.36 cm, respectively. After 56 days of culture, the body length and weight of fish at 100 and 200 inds/m3 were higher, FCR lower and were significantly different (p<0.05) compared to other treatments (300 and 400 inds/m3). The highest survival rate of fish was observed at 200 inds/m3 (91.0%), but no significant difference from other the treatments (p>0.05). Fish biomass at 200 inds/m3 was 2.6 kg/m3, was not significantly different compared to 300 and 400 inds/m3, but significantly different compared to 100 ind/m3 (1.3 kg/m3). In conclusion, tank culture of mudskipper applied bio-floc technology at stocking density of 200 inds/m3 was appropriate.

TÓM TẮT

Nghiên cứu nuôi cá kèo trong bể với mật độ khác nhau nhằm xác định mật độ nuôi thích hợp cho sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá kèo được nuôi theo công nghệ biofloc. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức mật độ khác nhau (100, 200, 300 và 400 con/m3) và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Bể nuôi có thể tích 0,5 m3 (chứa 0,35 m3 nước), độ mặn 15o/oo­­và cá được nuôi theo công nghệ biofloc (C:N =15:1). Cá có khối lượng và chiều dài ban đầu lần lượt là 2,07±0,40 g, 8,17±0,36 cm. Sau 56 ngày nuôi, chiều dài và khối lượng của cá nuôi ở mật độ 100 và 200 con/m3 lớn hơn, hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) nhỏ hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với với mật độ nuôi 300 và 400 con/m3 (p<0,05). Tỷ lệ sống của cá ở nghiệm thức mật độ 200 con/m3 đạt cao nhất (91,0%), khác biệt không có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại (p>0,05). Sinh khối cá thu được ở mật độ 200 con/m3 là 2,6 kg/m3, khác biệt không ý nghĩa so với mật độ 300 và 400 con/m3, nhưng cao hơn có ý nghĩa so với mật độ 100 con/m3 (1,3 kg/m3). Tóm lại, nuôi cá kèo theo công nghệ biofloc với mật độ 200 con/m3 trong bể là phù hợp nhất.

Trích dẫn: Lê Quốc Việt, Trần Minh Phú, Lê Văn Thông và Trần Ngọc Hải, 2019. Nghiên cứu nuôi cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) trong bể với các mật độ khác nhau theo công nghệ biofloc. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 55(4B): 97-104.

Các bài báo khác
Tập 54, Số 3 (2018) Trang: 132-137
Tải về
Số 15a (2010) Trang: 189-197
Tải về
Số 14 (2010) Trang: 205-212
Tải về
Số 48 (2017) Trang: 27-35
Tải về
Tập 55, Số 5 (2019) Trang: 42-47
Tải về
Số 38 (2015) Trang: 44-52
Tải về
Số 47 (2016) Trang: 45-53
Tải về
Số 49 (2017) Trang: 72-83
Tải về
Số 46 (2016) Trang: 80-86
Tải về
Số 06 (2017) Trang: 83-92
Tải về
Số 34 (2014) Trang: 84-91
Tải về
Tập 56, Số CĐ Thủy sản (2020) Trang: 87-93
Tải về
Tập 55, Số 3 (2019) Trang: 88-95
Tải về
Tập 54, Số 9 (2018) Trang: 88-96
Tải về
Số 37 (2015) Trang: 89-96
Tải về
Tập 54, Số CĐ Thủy sản (2018) Trang: 9-17
Tải về
Tập 54, Số 7 (2018) Trang: 94-101
Tải về
Số 24a (2012) Trang: 96-105
Tải về
Số 50 (2017) Trang: 97-108
Tải về
11 (2021) Trang:
Tạp chí: International Journal of Scientific and Research Publications
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...