Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
Số 38 (2015) Trang: 44-52
Tải về

Thông tin chung:

Ngày nhận: 23/12/2014

Ngày chấp nhận: 09/06/2015

Title:

White-leg shrimp performance at different stocking densities in tank integrated with tilapia and biofloc application

Từ khóa:

Tôm thẻ chân trắng, mật độ, cá rô phi, biofloc

Keywords:

White leg shrimp, stocking densities, tilapia, biofloc

ABSTRACT

Experiment on white-leg shrimp and tilapia integrated in tank in combination with biofloc was done in order to determine the appropriate white-leg shrimp stocking densities in the integration model. The experiment included four shrimp stocking densities: (i) 150 shrimp/m3; (ii) 200 shrimp/m3; (iii) 250 shrimp/m3 and (iv) 300 shrimp/m3; tilapia was stocked separately at 4 fish/m3 and the biofloc technology (C:N = 15:1); each treatment was triplicated. Experimental tanks (2m3) contained 1.5 m3 seawater at salinity of 15o/oo, initial shrimp weight was 0.006 g. After 60 days of rearing, water quality parameters were suitable for the normal development of white-leg shrimp and tilapia. Shrimp reared at stocking densities of 150 and 200 shrimp/m3 were 6.76 and 5.97 g, respectively. Moreover, at stocking densities of 250 and 300 shrimp/m3 shrimp had significantly higher growth and survival rate and lower FCR compared to shrimp reared at stocking densities of 150 and 200 shrimp/m3. However, there was no significant difference in productivity among treatments (p>0.05).

TÓM TẮT

Nghiên cứu nhằm xác định mật độ tôm thẻ chân trắng thích hợp trong mô hình nuôi ghép với cá rô phi kết hợp với biofloc. Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức mật độ tôm thẻ gồm: (i) 150 con/m3; (ii) 200 con/m3; (iii) 250 con/m3 và (iv) 300 con/m3; cá rô phi được nuôi ghép ở tất cả các nghiệm thức với mật độ 4 con/m3 và kết hợp với biofloc (C:N = 15:1); mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Bể thí nghiệm có thể tích 2 m3/bể với mức nước bố trí là 1,5 m3, độ mặn 15 ‰, khối lượng trung bình tôm bố trí là 0,006 g. Sau 60 ngày nuôi, các yếu tố môi trường nước nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng và cá rô phi. Tôm nuôi ở mật độ 150 và 200 con/m3 đạt khối lượng trung bình lần lượt là 6,76; 5,97 g/con và có tốc độ tăng trưởng về khối lượng nhanh, tỷ lệ sống cao, FCR thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức ở mật độ 250 và 300 con/m3. Tuy nhiên, năng suất thu được ở các mật độ nuôi khác nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Các bài báo khác
Tập 54, Số 3 (2018) Trang: 132-137
Tải về
Số 15a (2010) Trang: 189-197
Tải về
Số 14 (2010) Trang: 205-212
Tải về
Số 48 (2017) Trang: 27-35
Tải về
Tập 55, Số 5 (2019) Trang: 42-47
Tải về
Số 47 (2016) Trang: 45-53
Tải về
Số 49 (2017) Trang: 72-83
Tải về
Số 46 (2016) Trang: 80-86
Tải về
Số 06 (2017) Trang: 83-92
Tải về
Số 34 (2014) Trang: 84-91
Tải về
Tập 56, Số CĐ Thủy sản (2020) Trang: 87-93
Tải về
Tập 55, Số 3 (2019) Trang: 88-95
Tải về
Tập 54, Số 9 (2018) Trang: 88-96
Tải về
Số 37 (2015) Trang: 89-96
Tải về
Tập 54, Số CĐ Thủy sản (2018) Trang: 9-17
Tải về
Tập 54, Số 7 (2018) Trang: 94-101
Tải về
Số 24a (2012) Trang: 96-105
Tải về
Tập 55, Số 4 (2019) Trang: 97-104
Tải về
Số 50 (2017) Trang: 97-108
Tải về
11 (2021) Trang:
Tạp chí: International Journal of Scientific and Research Publications
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...