Thông tin chung: Ngày nhận: 21/09/2016 Ngày chấp nhận: 29/04/2017 Title: Digestive enzyme activities of snakehead (Channa striata) larvae from early hatching to 35 days with different diets Từ khóa: Cá lóc, Channa striata, enzyme tiêu hóa Keywords: Channa striata, digestive enzyme, snakehead | ABSTRACT The aim of this study is to describe actiwihtvities of some digestive enzymes of snakehead larvae from day 1 to day 35 after hatching, feeding with two different diets. In the first treatment, larvae were fed with live feed including Moina sp. and marine trash fish; in the second treatment, larvae were still fed with live feed, but live feed was gradually replacement by formulated diet from day 17 onwards. Larvae were sampled at 1; 3; 5; 7; 9; 12; 15; 18; 21; 25; 30 and 35 days after hatching (DAH), before feeding in the morning. The result showed that, amylase enzymes activity fluctuated during the research period and reached 3.68±0.17 mU/mg protein in live feed treatment and 5.77±0.14 mU/mg protein in formulated diet treatment at 35 DAH. Proteolytic enzymes were detected at low level as early as hatching and remained constant until 12 DAH. Trypsin activity increased significantly at 21 DAH. The highest pepsin activity was 1.44±0.26 mU/mg protein, recorded at 25 DAH, and the highest trypsin and chymotrypsin activities were 333±19.9 mU/mg protein and 1,773±62.3 mU/mg protein respectively, at 35 DAH. Pepsin and trypsin activities of larvae feeding with live feed were significantly higher than those fed formulated diet. However, the higer α-amylase activity was found in larve fed formulated diet treatment. TÓM TẮT Nghiên cứu xác định sự biến đổi về hoạt tính enzyme tiêu hóa của ống tiêu hóa ở cá lóc bột được tiến hành từ ngày 1 đến ngày thứ 35 sau khi cá nở với 2 chế độ cho ăn khác nhau. Nghiệm thức 1 sử dụng hoàn toàn thức ăn tươi sống là Moina và cá tạp (TĂTS), nghiệm thức 2 cá tạp được thay thế bằng thức ăn chế biến từ ngày 17 trở đi (TĂCB). Mẫu được thu vào buổi sáng trước khi cho ăn vào các ngày 1; 3; 5; 7; 9; 12; 15; 18; 21; 25; 30 và 35 để phân tích sự biến đổi của enzyme tiêu hóa. Kết quả cho thấy, hoạt tính enzyme amylase biến động trong suốt giai đoạn phát triển của cá, đạt cao nhất 3,68±0,17 mU/mg protein ở nghiệm thức TĂTS và 5,77±0,14 mU/mg protein ở nghiệm thức TĂCB vào ngày thứ 35. Trong khi đó, các enzyme tiêu hóa protein được phát hiện với mức thấp ở giai đoạn mới nở và ổn định cho đến ngày 12. Trypsin tăng ý nghĩa ở ngày thứ 21. Hàm lượng pepsin, đạt giá trị cao nhất vào ngày 25 ở nghiệm thức TĂTS với mức 1,44±0,26 mU/mg protein. Hoạt tính enzyme trypsin và chymotrypsin đạt mức cao nhất là 333±19,9 mU/mg proteinvà 1.773±62,3 mU/mg protein vào ngày 35 ở nghiệm thức TĂCB. Khi so sánh ảnh hưởng của hai loại thức ăn lên hoạt tính của enzyme thì thấy rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Đối với cá ăn thức ăn cá tạp hoạt tính enzyme pepsin và trypsin cao, trong khi đó cá ăn thức ăn chế biến có hàm lượng α-amylase cao hơn. |
Trích dẫn: Ngô Minh Dung, Nguyễn Thị Long Châu, Bùi Minh Tâm, Phạm Thị Tú Nga và Trần Thị Thanh Hiền, 2017. Nghiên cứu sự thay đổi hoạt tính một số enzyme tiêu hóa của cá lóc đen (Channa striata) từ giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi với thức ăn khác nhau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 49b: 84-90. |