Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
133 (2022) Trang: 43
Tạp chí: Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi
Liên kết:

Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá hiện trạng chăn nuôi, tình hình bệnh tiêu chảy và sử dụng kháng sinh
trong chăn nuôi bò sinh sản tại huyện Mỏ Cày Bắc và Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Khảo sát được thực hiện từ
tháng 11/2021 đến tháng 01/2022 trên 180 hộ chăn nuôi bò sinh sản với tổng số 884 con bò. Các số liệu sơ cấp
và thứ cấp được thu thập thông qua phương pháp điều tra cắt ngang và điều tra hồi cứu. Kết quả cho thấy số
lượng của đàn bò tại tỉnh Bến Tre tăng đều qua các năm từ 2018-2021, trung bình 1,82%/năm. Quy mô chăn
nuôi trung bình tại các hộ ở huyện Mỏ Cày Bắc và Giồng Trôm tương ứng là 4,45±1,96 con/hộ và 5,14±2,98
con/hộ, trong đó tỷ lệ bò cái sinh sản chiếm 48,3-52,2%. Tất cả các hộ chăn nuôi đều áp dụng phương thức chăn
nuôi nhốt và thụ tinh nhân tạo cho bò. Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại kiên cố: 65,8-70,0%, lập sổ ghi chép
trong thai kỳ của bò: 86,7-90,0%, đở đẻ cho bò: 71,7-77,5%, bán bê bệnh viêm da nổi cục: 91,7-94,2%. Tỷ lệ bệnh tiêu chảy trên đàn bò của hai huyện dao động từ 22,2-25,8%,
trong đó bê dưới 12 tháng tuổi mắc bệnh tiêu chảy nhiều nhất. Các hộ chăn nuôi bò sử dụng kháng sinh với mục
đích điều trị bệnh cao nhất: 75,8-81,7%. Các loại kháng sinh được sử dụng nhiều nhất là Colistin: 40,8-45,0%,
Ampicillin: 28,3-35,0%, Tetracyclin: 15,8-21,7% và Streptomycin 15,0-16,7%.

Các bài báo khác
Số Nông nghiệp 2014 (2014) Trang: 138-144
Tải về
Tập 54, Số CĐ Thủy sản (2018) Trang: 199-205
Tải về
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...