Nhằm so sánh khía cạnh kỹ thuật và tài chính của các hình thức sản xuất trong nuôi tôm sú thâm canh ở huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, nghiên cứu này đã được thực hiện thông qua việc bố trí 3 ao thí nghiệm (TN) đồng thời theo dõi 3 ao ở mỗi hệ thống sản xuất (HTSX) gồm hộ nông dân (ND); tổ hợp tác (THT) và công ty (Cty). Kết quả cho thấy diện tích ao nuôi ở THT (0,62 ha/ao) lớn hơn so với TN (0,32), ND (0,55) và Cty (0,54). Tôm giống thả nuôi (PL12) đã được xét nghiệm PCR 100% ở TN và các HTSX. Thời gian nuôi của TN và THT ngắn hơn so với ND và Cty, nhưng cỡ tôm thu hoạch không khác biệt (từ 21,8-26,7 g/con). Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) ở TN (1,23) thấp hơn so với các HTSX còn lại (1,41-1,59). Tỉ lệ sống (từ 75,1-86,7%) và năng suất tôm nuôi (từ 5,9-7,73 tấn/ha/vụ) không khác biệt giữa TN và các HTSX. Các yếu tố môi trường thích hợp cho tôm tăng trưởng (3,92-4,70 %/ngày và từ 0,17-0,23 g/ngày). Tổng chi phí từ 635-800 tr.đ/ha/vụ. Giá thành sản xuất của TN là 91,6 nghìn đồng/kg thấp hơn từ 20,4-37,4 nghìn đồng/kg, nhưng giá bán (122 nghìn đồng/kg) cao hơn từ 3-21 nghìn đồng/kg so với các HTSX còn lại. Do đó lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của TN cao hơn so với các HTSX khác. Ngoài ra, những thuận lợi và khó khăn trong các HTSX cũng được phân tích trong nghiên cứu này.
Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Lầu 4, Nhà Điều Hành, Khu II, đường 3/2, P. Xuân Khánh, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Điện thoại: (0292) 3 872 157; Email: tapchidhct@ctu.edu.vn
Chương trình chạy tốt nhất trên trình duyệt IE 9+ & FF 16+, độ phân giải màn hình 1024x768 trở lên