Thông tin chung: Ngày nhận bài: 21/10/2019 Ngày nhận bài sửa: 27/11/2019 Ngày duyệt đăng: 23/04/2020 Title: Fishing status and fishermen’s perception of climate change impacts on coastal bag-net fishing in Soc Trang province Từ khóa: Biến đổi khí hậu, khai thác ven bờ, lưới đáy, tỉnh Sóc Trăng Keywords: Bag-net, climate change, coastal fishing, Soc Trang province | ABSTRACT Studying on fishing status and perception of fishermen on the impact of climate change to near shore bag-net fishing at Soc Trang province was performed from January to June, 2018. Results showed that fishing boat power, length, and tonnage are recorded at 32.7±13.9 CV; 12.09±1.63 m; and 5.46±3.97 tons, respectively. Bag-net length, width, height, and cod-end mesh size are at 23.3±7.97 m; 14.2±5.02 m; 5.35±2.71 m; and 2a=12.7±0.46 mm, respesctively. The average member of fishermen is 3.63±1.56 people/boat; 47.9±13.7 years old; 80,0% at primary school level in education. The average of fishing time is 6,2±3,1 days/month and the main fishing season is from January to June annually. Fishing yield is at 191.9±152.8 kg/day/household (11.9±10,0 tons/year/household). Total investment cost is at 124.1±54.1 million VND/boat and variable cost at 1.36±0.79 thousand VND/household/day. Turnover is at 2.24±0.88 million VND/day and profit rate 0.53±0.47. There are 77.5% fishermen only working on fishing. There are 55% fishermen have aware of climate change such as stronger wind rate and increasing storm frequency, and fishing season present unusually and difficult to predict. Only 45% fishermen have some temporary solutions to cope with climate change. Generally, bag-net fishing have low production and unstable income due to extreme weather and banning regulation. Thus, the fishermen suggest suitable and integrated solutions for their better livelihood. TÓM TẮT Nghiên cứu hiện trạng khai thác và nhận thức của ngư dân về tác động của biến đổi khí hậu đối với nghề lưới đáy ven bờ tỉnh Sóc Trăng qua phỏng vấn 40 hộ ngư dân lưới đáy từ 01/2018 đến 6/2018. Kết quả cho thấy công suất tàu 32,7±13,9 CV; chiều dài tàu 12,09±1,63 m (8,0-15,0m); tải trọng 5,46±3,97 tấn. Chiều dài lưới 23,3±7,97 m; mở ngang 14,2±5,02 m; mở cao 5,35±2,71m; cỡ mắt lưới đụt 2a=12,7±0,46 mm. Ngư dân trung bình có 3,63±1,56 người/tàu, 47,9±13,7 tuổỉ và mức học vấn thấp (80%). Thời gian khai thác là 6,2±3,1 ngày/tháng và mùa vụ khai thác chính từ tháng 01- 6 hàng năm. Sản lượng khai thác 191,9±152,8 kg/ngày/hộ (11,9±10,0 tấn/năm/hộ). Tổng chi phí đầu tư 124,1± 54,1 triệu đồng/tàu và chi phí biến đổi 1,36±0,79 triệu đồng/hộ/ngày. Doanh thu đạt 2,24±0,88 triệu đồng/ngày và tỷ suất lợi nhuận 0,53±0,47 lần. Có 77,5% ngư dân sống dựa vào khai thác. Có 55% ngư dân nhận thức biểu hiện của biến đổi khí hậu qua tần suất, cường độ gió, bão ngày càng mạnh, mùa vụ xuất hiện nguồn lợi không theo qui luật và khó dự đoán. Chỉ 45% ngư dân là có một số ứng phó tạm thời với biến đổi khí hậu. Nhìn chung, nghề lưới đáy có sản lượng thấp, thu nhập không ổn định, bị tác động của thời tiết và lệnh cấm khai thác nên ngư dân mong được các hỗ trợ để ổn định cuộc sống. |