Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
Tập 56, Số 3 (2020) Trang: 134-142
Tải về

Thông tin chung:

Ngày nhận bài: 12/01/2020

Ngày nhận bài sửa: 02/04/2020

Ngày duyệt đăng: 29/06/2020

 

Title:

The optimal ratio of energy protein/lipid of snakehead (Channa striata) cultured in combined high temperature and saline water

Từ khóa:

Độ mặn, cá lóc, Channa striata, nhiệt độ, năng lượng, tỉ lệ năng lượng protein/lipid trong thức ăn

Keywords:

Channa striata, energy, dietary energy protein/lipid ratio, salinity, Snakehead fish, temperature

ABSTRACT

The study aimed to determine the optimal energy ratio (protein/lipid) for snakehead fish (Channa striata) fingerlings 6.5 g cultured in two environmental conditions, 28oC-0‰ and high temperature and salinity (34oC-9‰). There were six diet treatments consisting three levels of protein (40, 45 and 50%) and two levels of lipid (7 and 10%) corresponding and the dietary ratios energy originated from protein/lipid 3.41; 3.36; 3.82; 2.49; 2.71 and 3.03, respectively over a 60-day period. The results showed that the high temperature and salinity (34oC-9‰) of cultured environment significantly reduced the survival rate, growth, feed intake, FCR, the utilization efficiency, and retention of nutrients (protein and lipid), but did not affect HSI (hepatosomatic index) of snakehead. The dietary ratio of energy originated from protein and lipids influenced growth, the utilization efficiency, and retention of nutrients (protein and lipid). The optimal dietary ratio of energy protein/lipid for snakehead is 3.5 at the cultured condition 28oC-0‰, and 3.37 at high temperature and salinity (34oC-9‰).

TÓM TẮT

Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tỉ lệ năng lượng (protein/lipid) tối ưu cho cá lóc (Channa striata) giống khối lượng trung bình 6,5 g được thực hiện trong môi trường nuôi 28oC-0‰ và môi trường nhiệt độ và độ mặn cao (34oC-9‰) với 6 nghiệm thức thức ăn gồm ba mức protein (40, 45 và 50%) và hai mức lipid (7 và 10%) tương ứng tỉ lệ năng lượng (protein/lipid) lần lượt là 3,41; 3,36; 3,82; 2,49; 2,71và 3,03 trong thời gian nuôi 60 ngày. Kết quả cho thấy cá lóc được nuôi trong môi trường nhiệt độ và độ mặn cao (34oC-9‰) làm giảm tỉ lệ sống, tăng trưởng, tỉ lệ thức ăn ăn vào, hiệu quả sử dụng thức ăn, hiệu quả sử dụng protein, lipid và hiệu quả tích lũy protein, lipid; tuy nhiên, không ảnh hưởng lên chỉ số gan tụy (HSI) của cá lóc. Tỉ lệ năng lượng (protein:lipid) trong thức ăn có ảnh hưởng lên tăng trưởng, hiệu quả sử dụng và tích lũy dưỡng chất (protein và lipid) cá lóc thí nghiệm. Tỉ lệ năng lượng (protein/lipid) tối ưu trong thức ăn cho cá lóc là 3,5 ở điều kiện nhiệt độ và độ mặn 28oC-0‰ và 3,37 ở điều kiện nhiệt độ và độ mặn cao (34oC-9‰).

Trích dẫn: Trần Thị Phương Lan, Trần Thị Thanh Hiền, Lam Mỹ Lan, Trần Lê Cẩm Tú và Trần Minh Phú, 2020. Tỉ lệ năng lượng protein/lipid tối ưu cho cá lóc (Channa striata) nuôi trong điều kiện nhiệt độ và độ mặn cao. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 56(3B): 134-142.

 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...