Thông tin chung: Ngày nhận bài: 17/05/2018 Ngày nhận bài sửa: 19/06/2018 Ngày duyệt đăng: 30/07/2018 Title: Study on the fluctuation of phytoplankton and dissolved oxygen concentration for fish stock management at Nhieu Loc - Thi Nghe Canal in Ho Chi Minh city Từ khóa: Đàn cá, kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, ôxy hòa tan, phiêu sinh thực vật Keywords: Dissolved oxygen, fish stock, Nhieu Loc - Thi Nghe canal, phytoplankton | ABSTRACT The study was conducted during one-year cycle, with six sampling periods in January, March, July, September and November 2015 to identify the phytoplankton and dissolved oxyen (DO) fluctuations at the Nhieu Loc - Thi Nghe (NL-TN) canal in spatial, temporal and tidal scales, thereby proposing solutions to manage the fish stock in the canal. The NL-TN canal is devided into three sections including downstream, midstream and upstream, with nine sampling stations. The collected samples represented the highest and lowest tide periods of the month. The results showed that the phytoplankton biomass reached highest value in upstream (5,2-6,1 gDW/m3) and lowest in downstream (4,4-4,9 gDW/m3); however, there is no correlation between high biomass phytoplankton and low DO in early morning in spatial scale. In terms of temporal aspect, phytoplankton biomass reached the highest in July (6.9 gDW/m3) and the lowest in September (3.5 gDW/m3); however, there is no correlation between phytoplankton and DO biomass over time. Therefore, the monitoring of phytoplankton biomass with the frequency of 2 months/time is not effective in predicting correlative fluctuations of phytoplankton indicator with DO deficiency for fish stock management. Considering tidal fluctuations, high and low tide levels had significant influence on the annual average phytoplankton biomass difference. Considering the DO aspect, DO shows the lowest level in the early morning of May at the low tide period, which coincides with the high mortality of fish stock in the canal at the beginning of the rainy season, posing a requirement for DO monitoring and management at the risky times with DO deficiency for fish stock management. TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện trong suốt chu kỳ một năm, với sáu đợt thu mẫu vào các tháng 1, 3, 5, 7, 9 và 11 năm 2015, nhằm khảo sát biến động sinh khối phiêu sinh thực vật (PSTV) và hàm lượng ôxy hòa tan (DO) trên kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè (NL-TN) theo không gian, thời gian và thủy triều, qua đó đề xuất giải pháp quản lý đàn cá trên kênh. Nghiên cứu đã phân vùng kênh NL-TN theo ba đoạn, đầu kênh, giữa kênh và cuối kênh với chín trạm thu mẫu. Mẫu được thu đại diện cho các thời điểm thủy triều cao nhất và thấp nhất trong tháng. Kết quả cho thấy sinh khối PSTV đạt cao nhất ở đoạn cuối kênh (5,2-6,1 gDW/m3) và thấp nhất ở đoạn đầu kênh (4,4-4,9 gDW/m3), tuy nhiên không có mối tương quan giữa sinh khối PSTV cao và DO xuống thấp vào sáng sớm theo không gian. Xét theo khía cạnh thời gian, sinh khối PSTV đạt cao nhất vào tháng 7 (6,9 gDW/m3) và thấp nhất vào tháng 9 (3,5 gDW/m3), tuy nhiên không có mối tương quan giữa sinh khối PSTV và DO theo thời gian. Như vậy việc quan trắc sinh khối PSTV với tần suất 2 tháng/lần là chưa có hiệu quả trong dự báo tương quan biến động của chỉ số này với sự thiếu hụt DO nhằm mục đích quản lý đàn cá. Xét theo biến động thủy triều, các mức nước lớn và nước ròng ảnh hưởng có ý nghĩa lên sự khác biệt sinh khối trung bình năm của PSTV. Xét riêng khía cạnh DO, mức DO xuống thấp nhất vào thời điểm sáng sớm của tháng 5 khi nước ròng, trùng hợp với hiện tượng cá chết nhiều trên kênh vào đầu mùa mưa, đặt ra yêu cầu cần quan trắc và quản lý DO thường xuyên vào các thời điểm dễ xảy ra nguy cơ thiếu hụt DO để quản lý đàn cá. |