Thông tin chung: Ngày nhận bài: 17/05/2018 Ngày nhận bài sửa: 11/06/2018 Ngày duyệt đăng: 30/07/2018 Title: Evaluate the effectiveness of hybrid catfish seed (Clarias macrocephalus x C. gariepinus) nursing and trading in Tien Giang province Từ khóa: Cá trê lai, kinh doanh, Tiền Giang, ương Keywords: Hybrid catfish, nursing, Tien Giang, trading | ABSTRACT The study was done through interviewing 110 nursing households and 38 trading households of hybrid catfish seed in Tien Giang province from February to October 2017 to assess the effectiveness such activities. The results of the survey of hybrids catfish seed nursing showed that the households groups with average nursing pond area 1,000-2,000 m2/pond (group I) and 2,001-3,000 m2/pond (group II) have higher productivity and profitability than the average nursing pond area 3,001-6,000 m2/pond (group III). The average nursing yields of the groups I, II, III were 939.0; 901.5 and 779.2 kg/1,000 m2/crop, respectively; the average profit of the three groups were 9.30; 8.93 and 6.79 million VND/1,000 m2/crop, respectively. Analyzing factors affecting yield showed that survival rates had the most significant effect on yield, while the average survival rate was gradually decreased in three groups I, II and III (28.3%, 25.5% and 21.7%, respectively). This suggests that appropriate management of nursing pond area is an important initial factor for the development of effective nursing practice. The results of the survey of hybrid catfish seed trading showed that the average profit of group A (retail) was 16.72 million VND/household/month, lower than group B (wholesale and retail) was 51.16 million VND/household/month, but the rate of profit of group A (20.89%) was higher than group B (7.66%). This shows that in order to achieve a large scale of business and profit, hybrid catfish seed traders need a large capital cost and accept a reasonable profit margin to develop the market. Title: Assessment the effectiveness of hydrid catfish seed (Clarias macrocephalus x C. gariepinus) nursing and trading in Tien Giang province. TÓM TẮT Nghiên cứu đã tiến hành điều tra 110 hộ ương và 38 cơ sở kinh doanh cá trê lai giống trên địa bàn tỉnh Tiền Giang từ tháng 02/2017 đến tháng 10/2017 nhằm đánh giá hiệu quả của các hoạt động trên. Kết quả khảo sát hoạt động ương cá trê lai giống cho thấy, nhóm hộ có diện tích trung bình ao ương 1.000-2.000 m2/ao (nhóm I) và 2.001-3.000 m2/ao (nhóm II) có năng suất và lợi nhuận cao hơn nhóm diện tích trung bình ao ương 3.001-6.000 m2/ao (nhóm III) với khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05). Trong đó, năng suất ương trung bình của nhóm I, II, III lần lượt là 939,0; 901,5 và 779,2 kg/1.000 m2/vụ, lợi nhuận trung bình của ba nhóm lần lượt là 9,30; 8,93 và 6,79 triệu đồng/1.000 m2/vụ. Việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất ương cho thấy tỉ lệ sống có ảnh hưởng quan trọng nhất đến năng suất ương, đồng thời tỉ lệ sống trung bình cũng giảm dần ở ba nhóm diện tích ao ương I, II và III lần lượt là 28,3%, 25,5% và 21,7%. Điều này cho thấy việc quản lí diện tích ao ương phù hợp là yếu tố quan trọng ban đầu để phát triển nghề ương hiệu quả. Kết quả khảo sát hoạt động kinh doanh cá trê lai giống cho thấy lợi nhuận trung bình của nhóm A (chuyên bán lẻ) đạt 16,72 triệu đồng/hộ/tháng, thấp hơn so với nhóm B (bán sỉ và lẻ) là 51,16 triệu đồng/hộ/tháng, nhưng tỉ suất lợi nhuận của nhóm A (20,89%) lại cao hơn nhóm B (7,66%). Điều này cho thấy để đạt được quy mô kinh doanh và lợi nhuận tuyệt đối lớn, các cơ sở kinh doanh cá giống cần có chi phí vốn lớn và chấp nhận tỉ suất lợi nhuận hợp lí để phát triển thị trường. |