Thông tin chung: Ngày nhận bài: 28/07/2017 Ngày nhận bài sửa: 13/10/2017 Ngày duyệt đăng: 26/10/2017 Title: Surveying vascular plant species component based on the types of soil in opened depression of flood plain in An Giang province Từ khóa: An Giang, đa dạng thực vật bậc cao, đất phèn, đất than bùn phèn, đồng lụt hở Keywords: Acid sulfidicpeat soil, acid sulfate soil, An Giang, opened depression of flood plain, Vascular plant diversity | ABSTRACT To assess diversity and identify factors that affected the diversity indexes, the research surveyed vascular plant diversity with three types of characteristics of soils including acid sulfidicpeat soil (SPS), active acid sulfate soil with sulfuric materials present near layer (0-50 cm) (SSN), and depth in soil (>50 cm) (SSD), in opened depression of flood plain in An Giang province. On texture, all three types of soils had higher clay composition than silt and sand composition. pHKCl ranged from 3.98 ± 0.09 to 4.62 ± 0.06 and EC from 353.33±5.23 μS/cm to 531.50±53.01 μS/cm (p>0.05). Organic matter was the highest in the SPS (11.74 ± 0.46 %OM). The content of Ca2+ and Mg2+ in SPS was lower than the other soils (8.76±1.37 meq Ca2+/100g and 1.36±0.19 meq Mg2+/100g) (p<0.05). In terms of vegetation, the SSD was more diverse than SSN and SPS with 108 species, belonging to 101 genera and 46 families. The popular and diverse families were Poaceae and Fabaceae. The groups of medicinal plants and edible plants had high species diversity. The agricultural plants were about 38 species (about 60.32%), of which rice (Oryza sativa) has the highest frequency (64.3%). In SSN area (Tri Ton district), two rare genes which responded to flooding conditions were Oryza rufipogon and floating rice. The soil characteristics and human impacts affected the diversity indexes in the opened depression of flood plain. TÓM TẮT Để đánh giá sự đa dạng và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến các chỉ số đa dạng, nghiên cứu đã khảo sát thành phần loài thực vật bậc cao ở vùng đồng lụt hở, tỉnh An Giang theo ba loại đất là đất phèn nông (ĐPN), phèn sâu (ĐPS) và than bùn phèn (ĐTB). Về sa cấu, cả ba loại đất có thành phần sét cao hơn thịt và cát. pHKCl dao động từ 3,98±0,09 đến 4,62±0,06 và EC từ 353,33±5,23 µS/cm và 531,50±53,01 µS/cm (p>0,05). Đất than bùn phèn có hàm lượng chất hữu cơ (CHC) cao (11,74±0,46%OM), trong khi hàm lượng Ca2+ và Mg2+ lại thấp hơn so với hai loại đất còn lại (8,76±1,37 meq Ca2+/100g và 1,36±0,19 meq Mg2+/100g) (p<0,05). Về thực vật, ĐPS có sự đa dạng hơn ĐPN và ĐTB với 108 loài, thuộc 101 chi và 46 họ. Họ phổ biến và đa dạng loài là Poaceae và Fabaceae. Nhóm cây thuốc và cây ăn được có sự đa dạng loài cao. Cây nông nghiệp có khoảng 38 loài (chiếm 60,32%), trong đó lúa (Oryza sativa) có sự xuất hiện cao nhất (64,3%). Ở ĐPN (huyện Tri Tôn) còn tìm thấy nguồn gen quý thích ứng với điều kiện ngập lũ là lúa ma (Oryza rufipogon) và giống lúa mùa nổi. Đặc điểm hóa lý đất và tác động con người đã ảnh hưởng đến các chỉ số đa dạng ở vùng sinh thái đồng lụt hở. |