Thông tin chung: Ngày nhận: 05/08/2016 Ngày chấp nhận: 25/10/2016 Title: A survey on the growth, productivity and raising technology for dairy cattle at Song Hau dairy farm, Long Hoa and Evergrowth dairy co-operatives in the Mekong delta Từ khóa: Hợp tác xã bò sữa, sinh trưởng, năng suất sữa, sinh sản, sự phát triển Keywords: Milk yield, lactating cow, conception, body weight and measurements | ABSTRACT This survey was carried out at Song Hau dairy farm, Long Hoa dairy co-operative of Can Tho City and Evergrowth co-operative of Tran De district in Soc Trang province. A total of 923 crosssbred cows (Holstein Friesian x lai Sind - HF) including 90 F1, 390 F2, 387 F3 and 56 F4 cows were surveyed, however the number of F1 and F4 cows were not enough for evaluating some criteria. The results showed that live weight and body measurement of F4 cows from 1 to 19 months of age were higher than those of F2 and F3. A 305-day lactation yield of F3 cows was the highest (4.179±54,9 kg), followed by F2 (4.057±27,5 kg) and F1 (3.477±91,5 kg). The age at the first estrus and at first pregnancy was respectively 18.5 and 21.7 months for the F1, 17.6 and 20.8 months for the F2 and 17.6 and 20.4 months for the F3 cows. The conception ratio (number of inseminations/conception) was 2.4 for the whole herd with the highest for the F3 cows (2.80), followed by F2 (2.4) and F1 (2.0). Time for the estrus exposed after calving was 45.5; 45.2 and 44.1 days for the F1, F2 and F3 cows, respectively. The conclusion was that the size and live weight of the F4 cows were higher than those of the others, while the higher milk productivity was for the F3 crossbred cows. There was an increase of artificial insemination time for conception and the estrus after calving from F2, F3 and F4 cows. TÓM TẮT Điều tra này được thực hiện trên đàn bò sữa tại Nông trường Sông Hậu, hợp tác xã (HTX) chăn nuôi bò sữa Long Hòa của thành phố Cần Thơ và HTX bò sữa Evergrowth của tỉnh Sóc Trăng. Tổng số bò được điều tra là 923 bò lai HF (Holstein Friesian x lai Sind) gồm có 90 bò lai F1, 390 bò lai F2, 387 bò lai F3 và 56 bò lai F4, tuy nhiên số lượng cá thể của bò F1 và F4 được điều tra chưa đủ để đánh giá một số chỉ tiêu. Kết quả cho thấy, khối lượng và kích thước các chiều đo của bò lai F4 từ 1 đến 19 tháng tuổi cao hơn bò F2 và F3. Chu kỳ cho sữa (305 ngày) của bò lai F3 đạt cao nhất (4.179±54,9 kg), kế đó là bò F2 (4.057±27,5 kg) và F1 (3.477±91,5 kg). Tuổi lên giống lần đầu và mang thai lần đầu theo thứ tự là 18,5 và 21,7 tháng ở bò F1, 17,6 và 20,8 tháng ở bò F2, và 17,6 và 20,4 tháng ở bò F3. Số lần phối giống để đậu thai trung bình là 2,40 với số lần cao nhất là bò F3 (2,80), kế đến là bò F2 (2,40) và bò F1 (2,0). Thời gian lên giống (ngày) lại sau khi đẻ là 45,5, 45,2 và 44,1 theo thứ tự ở bò F1, F2 và F3. Kết luận của nghiên cứu là tầm vóc và khối lượng của bò lai HF ở thế F4 cao hơn các thế hệ khác, trong khi năng suất sữa ở bò cái F3 thì cao hơn. Có sự tăng số lần phối giống nhân tạo để đạt thụ thai theo thứ tự từ bò cái F2, F3 và F4. |