ABSTRACT
Total of 100 individual Striped catfish farmers (non-integration, Non-In), 85 cooperative Striped catfish farmers (horizontal integration, H-In) and 85 integrated Striped catfish farmers with processing plants and/or aquaculture feed business (vertical integration, V-In) were randomly interviewed in the Mekong Delta from Oct 2010 to Apr 2011. Non-In type has developed since 1990, and H-In and V-In types have developed since 2004. There are some similar characteristics of the three Striped catfish farming systems including pond area (0.5 ha/pond), pond water depth (4.0 m), culture duration (7 months), FCR (1.6), survival rate (75.7%), harvest size (0.94 kg/fish), highest feed cost, cost price (VND 15,758/kg of fish), B/C (3.7%). However, there are some different points in these Striped catfish farming systems e.g. the lowest fish yield occurred in the H-In (321 tons/ha/crop) and the highest one was in the V-In (345 tons/ha/crop). In the Non-In, farmers had to pay all production cost, meanwhile farmers in the H-In and V-In paid 67.4% and 52.6%, respectively. Farm gate price in the V-In was higher than that in the Non-In and H-In. Ratio of economic lost households was highest in the Non-In (30%) and lowest in the V-In (16%). There was multiple regression correlation between yield, stocking density, total feeding, cost price, farm gate price and profit. The V-In type showed some major strengths such as providing pellet feed by integrated companies, reducing household?s investment cost and covering the whole of raw Striped catfish production. Generally, the V-In type is considered as the best integration in Striped catfish farming, which reduces risks and supports for sustainable catfish culture development in the Mekong Delta.
Keywords: Striped catfish farming, integration, non-integration, Mekong Delta, Pangasianodon hypophthalmus
Title: The status of Striped catfish (Pangasianodon hypophthalamus Sauvage, 1878) farming integration and non-integration in the Mekong Delta
TóM TắT
Tổng số 100 hộ nuôi cá tra riêng lẻ (RL), 85 hộ xã viên HTX và hội viên chi hội (LK ngang), 85 hộ liên kết với doanh nghiệp thủy sản (LK dọc) đã được phỏng vấn ngẫu nhiên ở ĐBSCL từ 10/2010 đến 04/2011. Hình thức RL đã phát triển từ năm 1990, hình thức LK ngang và LK dọc hình thành và phát triển từ năm 2004. Có những điểm giống nhau ở ba hình thức sản xuất này là: diện tích ao (0,46 ha/ao); độ sâu mức nước ao (4,0 m); thời gian nuôi (7 tháng); FCR (1,6); tỷ lệ sống (75,7%); kích cỡ cá thu hoạch (0,94 kg/con); chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất; giá thành sản xuất (15.758 đồng/kg cá); tỷ suất lợi nhuận (3,7%). Tuy nhiên, có những điểm khác nhau giữa ba hình thức sản xuất này là năng suất thấp nhất ở hình thức LK ngang (321 tấn/ha/vụ) và cao nhất là LK dọc (345 tấn/ha/vụ). ở hình thức RL, nông hộ phải chi tất cả các chi phí sản xuất. ở hình thức LK ngang và dọc, tỷ lệ này lần lượt là 67,4% và 52,6,%. Giá cá bán của hình thức LK dọc cao hơn so với hình thức RL và LK ngang. Tỷ lệ số hộ bị thua lỗ cao nhất ở hình thức RL (30%) và thấp nhất ở hình thức LK dọc (16%). Có mối tương quan giữa năng suất, lượng thức ăn, giá thành sản xuất, giá bán với lợi nhuận. Hình thức liên kết LK dọc có nhiều ưu điểm như: thức ăn cho cá được cung cấp bởi các công ty liên kết, giảm mức đầu tư của nông hộ và đầu ra sản phẩm được bao tiêu. Nhìn chung, đây là hình thức liên kết sản xuất có rủi ro thấp và giúp nông dân nuôi cá tra ở ĐBSCL ổn định sản xuất.
Từ khóa: Nuôi cá tra, ĐBSCL, liên kết, riêng lẻ, Pangasianodon hypophthalamus