Thông tin chung: Ngày nhận bài: 06/11/2018 Ngày nhận bài sửa: 18/05/2019 Ngày duyệt đăng: 28/06/2019 Title: Comparison on growth and survival rates of snakeskin gourami (Trichopodus pectoralis Regan, 1910) fingerlings propagated from different broodstock sources Từ khóa: Cá sặc rằn, tăng trưởng, tỉ lệ sống, Trichopodus pectoralis, ương cá giống Keywords: growth, nursing stage, snakeskin gourami, survival rate, Trichopodus pectoralis | ABSTRACT The study was aimed to evaluate effects of broodstock sources on growth and survival rate of snakeskin gourami in the nursing stage. Three sources of broodstock including cultured fish in Dong Thap, wild fish in Ca Mau and Kien Giang provinces were reared for three months in hapas. The fry were artificially propagated from 15 pairs of breeders of each sources and kept separate by families during incubation. After 24 hours, the fry were pooled by broodstock sources (3 treatments) and stocked in 6 ponds (area of 200m2/pond) at the density of 500 fry/m2. After 2.5 months of rearing, the final mean weight of fingerlings from Dong Thap, Kien Giang and Ca Mau were 9.26 ± 1.18 g, 6.43 ± 1.07g and 4.13 ± 1.2 g, respectively. Dong Thap fish had the highest growth and the most uniform size, significantly different from Ca Mau and Kien Giang fish (P<0.05). However, survival rate of Dong Thap fish (22.3 ± 1.3%) was lower than that of Kien Giang (27.6 ± 1.7%) (P=0.06) and Ca Mau (26.2 ± 1.1%) (P=0.13). Feed conversion ratios were similar (P>0.05) among treatments (from 1.16 to 1.20). The fingerling yields were not significantly different among three sources, averaged from 4,654 to 5,214 kg/ha. Research results of fry from Dong Thap broodstock faster grow than those of Kien Giang and Ca Mau sources. TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các nguồn cá bố mẹ đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá sặc rằn ở giai đoạn ương giống. Cá bố mẹ từ ba nguồn: cá nuôi Đồng Tháp, cá tự nhiên Cà Mau và Kiên Giang đã được nuôi vỗ 3 tháng trong giai. Cá bột được sinh sản nhân tạo từ 15 cặp bố mẹ của mỗi nguồn và ấp riêng theo từng cặp. Sau khi nở 24 giờ, cá bột được gom lại theo 3 nghiệm thức (nguồn cá) và được bố trí trong 6 ao (diện tích mỗi ao 200 m2) với mật độ 500 con/m2. Sau 2,5 tháng ương, khối lượng trung bình của cá Đồng Tháp, Kiên Giang và Cà Mau lần lượt là 9,26 ± 1,18 g, 6,43 ± 1,07g và 4,13 ± 1,2 g. Cá Đồng Tháp tăng trưởng nhanh nhất và đồng đều nhất, khác biệt có ý nghĩa so với hai nguồn cá còn lại (P<0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ sống của cá Đồng Tháp (22,3 ± 1,3%) thấp hơn so với cá Kiên Giang (27,6 ± 1,7%) (P=0,06) và Cà Mau (26,2 ± 1,1%) (P=0,13). Hệ số chuyển hóa thức ăn của cá tương đương (P>0,05) ở ba nghiệm thức (từ 1,16 đến 1,20). Năng suất cá sặc rằn khác biệt không có ý nghĩa giữa ba nguồn cá, trung bình từ 4.654 đến 5.214 kg/ha. Kết quả nghiên cứu nguồn cá bột từ cá bố mẹ Đồng Tháp cho tăng trưởng nhanh hơn so với nguồn Kiên Giang và Cà Mau. |