Thông tin chung: Ngày nhận bài: 03/07/2019 Ngày nhận bài sửa: 09/08/2019 Ngày duyệt đăng: 15/10/2019 Title: Application of Primer software to evaluate the distribution of natural fishes at the bufferzone of U Minh Ha National Park – Ca Mau Province Từ khóa: Đa dạng cá, phèn nông, phèn sâu, tỉnh Cà Mau, Vườn Quốc gia U Minh Hạ Keywords: Ca Mau province, deep acid sulfate soil, fish diversity, shallow acid sulfate soil, U Minh Ha National Park | ABSTRACT Composition of wild fish in forests such as Acacia Hybrid, Melaleuca Cajuputi and natural Melaleuca Cajuputi influenced by acid sulfate soil (ASS) layer and ages of trees was studied from 09/2018-03/2019 at U Minh Ha National Park, Ca Mau province. Fish samplings were collected through common fishing gears such as trawl, snare, trap, pot, fyke net, pound net, throw net, aerial net in dry and wet seasons. In wet season, 21 fish species belong to 6 taxa, 12 families were found wheareas 25 species belong to 8 taxa, 15 families discovered in dry season. Perciformes taxon was dominant with 11 species in both seasons. The fish weight in wet and dry seasons were 2.28 g and 2.32 g; 2.13 g - 7,652.53 g and 1.52 g - 10,339.85 g, respectively. Fish weight in the deep ASS were higher than those in shallow ASS. The fish including Puntius brevis, Puntius orphoides, Parachela siamensis, Hampala macrolepidota were dominant at the shallow ASS while Anabas testudineus, Trichopsis vittata, Betta taeniata appeared frequently dominant shallow ASS. Fish diversity was clustered in three groups in rainy season and two groups in the dry season. The findings revealed that cultivating types, depth of ASS, and seasons greatly influenced wild fish diversity in the study area. TÓM TẮT Nghiên cứu thành phần loài cá tự nhiên ở mô hình trồng keo lai, tràm trồng và tràm tự nhiên theo tầng phèn và độ tuổi cây rừng được thực hiện từ 09/2018 đến 03/2019 tại vườn Quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau. Ngư cụ lưới kéo, lưới giăng, lợp, lờ, lú, vớn, lưới ma trận được sử dụng để bắt cá. Vào mùa mưa, 21 loài cá thuộc 06 bộ, 12 họ được phát hiện, trong khi đó 25 loài cá thuộc 15 họ, 08 bộ được phát hiện vào mùa khô. Bộ cá Vược chiếm ưu thế nhất ở cả hai mùa với 11 loài. Sản lượng cá theo mẫu khảo sát dao động trong mùa mưa và mùa khô lần lượt là 2,28 g và 2,32 g; 2,13 g – 7.652,53 g và 1,52 g – 10.339,85 g. Nhóm cá trắng như cá rằm (Puntius brevis), cá đỏ mang (Puntius orphoides), cá lành canh xiêm (Parachela siamensis), cá ngựa sông (Hampala macrolepidota) phân bố ở vùng đất phèn sâu, trong khi cá rô (Anabas testudineus), cá bãi trầu (Trichopsis vittata), cá lia thia (Betta taeniata) phân bố ở vùng phèn nông. Đa dạng cá được chia thành 03 nhóm cá tương đồng theo vị khảo sát trong mùa mưa và 02 nhóm trong mùa khô. Qua kết quả nghiên cứu, loại mô hình, điều kiện phèn và yếu tố mùa có ảnh hưởng lớn đến đa dạng cá tự nhiên tại khu vực nghiên cứu. |