Thông tin chung: Ngày nhận bài: 13/11/2018 Ngày nhận bài sửa: 12/02/2019 Ngày duyệt đăng: 12/04/2019 Title: In vitro culture of cumulus-oocyte-granulosa complexes (COCGs) from bovine early antral follicles Từ khóa: Nang noãn bò, nang noãn có xoang sớm, sự trưởng thành noãn bào, yếu tố tăng trưởng Keywords: Bovine follicles, early antral follicles, growth factors, oocyte imaturation | ABSTRACT The study was conducted to support the development of the in vitro oocytes through the culture process needs to be supplemented with two different including (1) control (DC): TCM-199 + FBS (10%) compared with (2) treatment (TN): TCM-199 + FBS (10%) + sodium pyruvate (0.1 mg/ml) + hypoxanthine (4 mM) + estrogen (0.1 µg/ml). The cumulus-oocyte-granulosa complexes-COCGs are are cultured fixed by 1% agarose. After 13 days of culture, the results showed that the COCGs which had undergone in both treatment then formed antra, resulting in antral follicle-like structures on day 3 and 4 of culture. However, only in the TN treatment, these structures remained until day 13. In addition, the growth of follicle sizes was reported in both DC and TN treatments, respectively, from 95.2 ± 1.4 μm to 107 ± 6.4 μm and from 95.7 ± 1.7 μm to 113.6 ± 6.4 μm (p<0.05). The IVM experiment affirms the maturity of oocytes in the TN treatment at proportion 35.7% oocytes formed the first polar body. The IVF results showed that the fertilization of the oocytes was successfully accounted for 26.7% and growth to the 4-celled embryonic stage. TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm hỗ trợ sự phát triển của noãn bào in vitro bằng cách bổ sung các yếu tố cần thiết trong quá trình nuôi cấy ở môi trường (1) đối chứng (ĐC): TCM-199 + FBS (10 %), so sánh với môi trường (2) thí nghiệm (TN): có bổ sung thêm sodium pyruvate (0,1 mg/ml) + hypoxanthine (4 mM) + estrogen (0,1 µg/mL). Các phức hợp noãn bào-cumulus-tế bào hạt (complexes of cumulus-oocyte-granulosa, COCGs) được nuôi cố định bằng agarose 1%. Kết quả sau 13 ngày nuôi cấy cho thấy, các COCGs đều hình thành cấu trúc “giống xoang nang” ở ngày 3 và 4 của quá trình nuôi trong cả hai môi trường. Ở môi trường TN, các cấu trúc này duy trì đến ngày thứ 13. Bên cạnh đó, kích thước noãn bào tăng so với trước khi nuôi ở cả môi trường ĐC và TN lần lượt là từ 95,2 ± 1,4 µm đến 107 ± 6,4 µm, và từ 95,7 ± 1,7 µm đến 113,6 ± 6,4 µm (p<0,05). Kết quả IVM (nuôi trưởng thành noãn bào in vitro, in vitro maturation) khẳng định sự trưởng thành của noãn bào (xuất hiện thể cực thứ nhất) được nuôi trong môi trường TN đạt 35,7%. Kết quả IVF (thụ tinh trong ống nghiệm, in vitro fertilization) cho thấy 26,7% noãn bào được thụ tinh thành công và phát triển đến giai đoạn phôi 4 tế bào. |