Thông tin chung: Ngày nhận: 05/08/2016 Ngày chấp nhận: 25/10/2016 Title: The study of canine hookworms in Dong Thap and Soc Trang province by analyzing morphology characteristics and molecular biology Từ khóa: Giun móc, tỉnh Đồng Tháp, tỉnh Sóc Trăng Keywords: Hookworm, Dong Thap province, Soc Trang province | ABSTRACT Canine hookworm is one of the most popular parasitic diseases in domestic dogs in Vietnam, which has the potential of animal to human transmission. Therefore, the disease influences not only on animal health but also public health. The study was conducted to identify hookworm species in domestic dogs in Dong Thap and Soc Trang provinces. Hookworms were collected by post-mortem examination in Dong Thap and Soc Trang provinces. The hookworm samples were identified based on morphological characteristics, documented by Phan The Viet và cs., (1977), Levine N. D. (1968), Soulsby (1977) and molecular biology method. PCR-Restriction Fragment Length Polymorphism (PCR-RFLP) assay with the target internal transcribed spacer 1 (ITS-1) using Restriction enzyme RSaI was applied to differentiate hookworm species at molecular level. The results showed that the accumulative hookworm infection rate was 64.00%, with A. caninum, A. ceylanicum and A. braziliense (59.65%, 25.00% and 16.35%, respectively). The hookworm infection of 12-24 month-age dogs was up to 71.03%, which was higher than those over 24 months of age (60.55%). Infection rates had the tendency to decrease along with the increase of age. Unbridled dogs had infection rate of (71.6%), which was higher than that of dogs kept in cage (38.20%). Basing on morphological characteristics and molecular biology techniques, PCR - RELP showed the 3 phenotypes A1, A2 and A3 with 3 species of hookworm A. caninum, A. braziliense and A. ceylanicum, respectively. After sequencing and analyzing the ITS1 sequence, the results were completely in accordance with the patterns from PCR – RELP of three above mentioned species. TÓM TẮT Bệnh giun móc là một trong những bệnh ký sinh trùng phổ biến trên chó nuôi ở Việt Nam, và bệnh có khả năng truyền lây từ động vật sang người. Do vậy, bệnh không những gây ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi mà con ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đề tài được thực hiện nhằm xác định thành phần loài giun móc trên chó tại 2 tỉnh Đồng Tháp và Sóc Trăng. Giun móc được thu thập trên 2 địa bàn tỉnh Đồng Tháp và Sóc Trăng bằng phương pháp mổ khám. Sau đó, các mẫu giun móc được định danh dựa vào khóa định danh phân loại Phan Thế Việt và ctv. (1977), Levine N.D. (1968), Soulsby (1977). Kỹ thuật PCR – RELP (PCR đoạn gene ITS1, và sử dụng enzyme cắt giới hạn RsaI được dùng để phân biệt giun móc ở cấp độ phân tử. Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm giun móc trên chó trung bình là 64,00%, trong đó chó nhiễm A. caninum, A. ceylanicum và A. braziliense lần lượt với tỷ lệ là 59,65%; 25,00%; 16,35%. Chó 12 – 24 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm là 71,03% cao hơn ở chó trên 24 tháng tuổi (60,55%). Tỷ lệ nhiễm có xu hướng giảm dần theo tuổi. Chó nuôi thả rông có tỷ lệ nhiễm giun móc cao 71,6% và thấp hơn ở chó nuôi nhốt là 38,20%. Đặc điểm hình thái học và kỹ thuật sinh học phân tử PCR – RELP cho thấy, 3 kiểu hình A1, A2 và A3 tương ứng với 3 loài giun móc A. caninum, A. ceylanicum và A. braziliense. Kết quả giải trình tự đoạn gene ITS1 cho kết quả hoàn toàn trùng khớp với kết quả phân tích PCR – RELP. |