Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
7 (2023) Trang: 68-80
Tạp chí: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Nuôi tôm đã trở thành ngành sản xuất mũi nhọn có tiềm năng xuất khẩu lớn của Việt Nam trong nhiều năm qua. Năm 2020, diện tích nuôi tôm nước lợ trong cả nước là 742.483 ha, bằng 104,2% so với cùng kỳ năm 2019. Đồng bằng sông Cửu Long chiếm đến 92,6% tổng diện tích với 687.246 ha. Mặc dù diện tích đã tăng lên nhưng vẫn có một thách thức lớn là dịch bệnh ảnh hưởng đến sản lượng tôm, vốn đang gia tăng do xác định sai dịch bệnh và các yếu tố rủi ro. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, Enterocytozoon hepatopanaei (EHP), bệnh phân trắng (White Feces Disease - WFD) và bệnh chậm lớn (Growth Retardation Disease - GRD) đang là những mối quan tâm lớn. Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố nguy cơ gây nhiễm EHP, WFD và GRD, cũng như làm rõ mối nghi ngờ về mối quan hệ tiềm ẩn giữa ba bệnh. Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp tiếp cận dịch tễ học và mô hình hồi quy logistic đa biến để xác định các yếu tố nguy cơ. Kết quả cho thấy nhiễm EHP (34/102 ao) có liên quan đến bệnh WFD (17/102 ao). Trong khi đó, nhiễm EHP và WFD không liên quan đến GRD (46/102 ao). Sự lây nhiễm EHP ở tôm có liên quan đến hai yếu tố nguy cơ là nước ao bị nhiễm EHP và nồng độ khí độc N-NO2 trong ao ³ 0,5 ppm. Các yếu tố nguy cơ đối với bệnh WFD bao gồm bốn yếu tố: mực nước ao nuôi £ 1,2 m, nuôi tôm trong mùa mưa, tôm bị nhiễm EHP và áp dụng các kỹ thuật nuôi truyền thống. Bệnh chậm lớn được phát hiện có 5 yếu tố nguy cơ: sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm, tôm ³ 58 ngày tuổi, độ mặn nước ao

 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...